Trấn Tây Thành
Trấn Tây Thành (chữ Nho: 鎮西城, chữ Khmer: ត្រាន តាយ ថាញ់) là một Trấn của nước Đại Nam nhà Nguyễn giai đoạn 1835 đến 1841. Đây là vùng lãnh thổ thuộc Đông Nam Campuchia ngày nay.
Trấn Tây Thành 鎮西城 | |||||
Tỉnh của Đại Nam | |||||
| |||||
Trấn Tây tướng quân chi ấn | |||||
Bản đồ hành chính Trấn Tây Thành năm 1838 | |||||
Thủ đô | Nam Vang | ||||
Chính phủ | Quân chủ chuyên chế | ||||
Tổng đốc | |||||
- | 1835–1841 | Trương Minh Giảng | |||
Lịch sử | |||||
- | Thành lập | 1835 | |||
- | Giải thể | 1841 |
Bối cảnh
sửaNăm 1807, sau khi vua Gia Long lên ngôi, vua Chân Lạp là Ang Chan II (Nak Ong Chan, Nặc Chăn) xin thần phục triều đình Huế thay vì triều đình Xiêm như trước kia.
Sang triều Minh Mạng năm 1833, sau khi triều đình bắt tội Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Lê Văn Khôi con nuôi ông dấy binh nổi loạn, chiếm giữ Thành Bát Quái (thuộc Sài Gòn ngày nay). Vì yếu thế, vài tháng sau Lê Văn Khôi cầu viện nước Xiêm; vua Xiêm Rama III bèn sai tướng Chao Phraya Bodin và Phraklang đem hàng ngàn quân thủy bộ, chia ra làm 5 đạo tiến đánh Gia Định. Đường thủy thì qua ngả Vịnh Thái Lan, đường bộ thì qua đất Chân Lạp, đồng thời thừa thế khống chế luôn Chân Lạp.
Vua Minh Mạng sai Trương Minh Giảng, Phan Văn Thúy đem quân vào dẹp loạn Lê Văn Khôi. Dựa vào thành cao hào sâu, quân Lê Văn Khôi cố thủ hữu hiệu, quan quân triều đình vây hãm suốt hai năm mới phá được thành vào tháng 9 năm 1835. Lê Văn Khôi đã bệnh chết trước đó, con ông và dư đảng bị bắt giết.
Trong khi đó, quân Xiêm đánh vào tỉnh An Giang (tháng 12, 1833), rồi tiến lên giao chiến ở rạch Củ Hủ.[1] Trận ấy quân triều đình nhà Nguyễn thắng và phản công chiếm lại đồn Châu Đốc, tỉnh An Giang, thành Hà Tiên rồi cùng lực lượng quân Chân Lạp ngược dòng Cửu Long tiến chiếm lại thành Nam Vang. Quân Xiêm bại trận phải rút khỏi Chân Lạp; triều đình Huế bèn đưa Ang Chan II trở lại ngôi vua.
Đuổi được quân Xiêm, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương lập đồn Đại Nam ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp. Việc cai trị trong nước Chân Lạp đều do quan Việt sắp đặt, còn triều thần Chân Lạp chỉ kiêm nhiệm việc nhỏ.
Cuối năm 1834, vua nước Chân Lạp là Ang Chan II mất mà lại không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là Trà Long (Chakrey Long) và La Kiên,[2] vốn là người Chân Lạp nhưng nhận quan tước của triều đình Huế.
Năm 1835, Trương Minh Giảng tâu vua xin lập người con gái của Nặc Ông Chân là Ang Mey (Ngọc Vân) lên làm quận chúa, gọi là Chân Lạp quận chúa. Thực chất Ngọc Vân không có thực quyền.
Năm 1836, vua Minh Mạng cho đổi đất Chân Lạp thành Trấn Tây thành, chính thức sáp nhập vào Đại Nam. Ranh giới phía Tây Bắc của Trấn đến biển hồ Tonlé Sap.
Nhà Nguyễn trực trị
sửaQuản lý hành chính
sửaTrấn Tây Thành được chia ra làm 33 phủ và 2 huyện:[3][4]
Triều đình Huế hủy bỏ tước hiệu quan chức bản xứ của Chân Lạp và áp dụng quan chế nhà Nguyễn. Lê Đại Cương (sau được thay bằng Dương Văn Phong) được cử làm Tham tán đại thần, đặt một tướng quân, 4 chánh phó lãnh binh, cắt đặt các chức hiệp tán, đề đốc, lang trung, viên ngoại lang, giáo thụ, huấn đạo. Ở các chỗ yếu hiểm, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.
Năm 1840, nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo đạc ruộng đất, định lại thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.
Vua Minh Mạng đã cho lệnh tổng kê dân đinh nước Chân Lạp, vừa bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Nam thì có 970.516 người, đang khi đó thì ruộng đất lên đến 4.036.892 mẫu.[5]
Quan hệ với người bản địa
sửaKhi nhà Nguyễn chiếm được Nam Vang, lập Ang Chan II làm vua Chân Lạp thì mấy anh em là Ang Snguon, Ang Em, Ang Duong bỏ thành chạy theo quân Xiêm sang lưu vong ở Vọng Các. Xiêm triều lợi dụng yếu tố đó tìm cách đưa họ về Chân Lạp tranh ngôi vua với Ang Chan và khôi phục ảnh hưởng của Xiêm La.
Trong khi đó ở Trấn Tây, nhà Nguyễn phong tước hiệu cho ba người con gái của Ang Chan II:
- Ang Pen (Ngọc Biện 玉卞, Brhat Anak Angga Ang Baen) (1809-1840) làm Lư An[6] huyện quân;
- Ang Mey (Ngọc Vân 玉雲, Samdach Brhat Anak Angga Mei Khieu) (1815-1874?) làm Cao Miên quận chúa, nối ngôi vua cha;
- Ang Snguon (Ngọc Nguyên 玉源) (1829-1875) làm Tạp Ninh[7] huyện quân;
- Ang Pou (Ngọc Thu 玉秋, Samdach Brhat Maha Uparajini Puyani) (1822-1878) làm Thâu Trung[8] huyện quân.
Năm 1839, Ang Em và Ang Duong đem 9.000 dân Khmer cùng 70 chiếc thuyền từ Battambang (vùng Xiêm chiếm đóng) về Trấn Tây (vùng Đại Nam cai quản), định xin triều đình nhà Nguyễn cho kế vị Ang Chan làm vua nhưng bị Trương Minh Giảng bắt. Triều đình cho giải Ang Em về Gia Định xét hỏi rồi đưa ra Huế giam.
Đến năm 1840, Trà Long (Chakrey Long),[9] Nhân Vu (Yumreach Hu)[10] và La Kiên đến Huế mừng thọ vua Minh Mạng thì lại bị nhà vua hạch tội, bắt giam và đày ra Bắc Kỳ. Còn ở Trấn Tây thì Tham tán Dương Văn Phong khép cho Ngọc Biện (Ang Baen), chị của Ngọc Vân quận chúa, tội mưu phản với ý định trốn sang Xiêm, phải xử tử. Sau đó Trương Minh Giảng bắt Ngọc Vân và hai em gái là Ngọc Thu và Ngọc Nguyên về Gia Định giam lỏng ở đó. Các quan lại người Việt sang Trấn Tây Thành thì không ít kẻ lại làm nhiều chuyện trái phép lạm quyền, lạm thế và nhũng nhiễu dân tình.[11][12]
Với thái độ tự đắc và miệt thị triều thần Chân Lạp gây nhiều bất mãn trong dân chúng, việc cai trị Trấn Tây càng ngày càng khó. Người Chân Lạp có cớ nổi loạn đánh phá khắp nơi, chống lại chính sách Việt hóa của triều đình Huế.[cần dẫn nguồn] Em trai Ang Chan là Ang Duong nhân đó dấy binh, lại được người Xiêm hậu thuẫn để can thiệp nội bộ Chân Lạp, nên quan quân ở Trấn Tây luôn phải đánh dẹp hao tổn nhiều binh lực.
Năm 1840, mấy vạn quân Xiêm kéo vào đóng ở U Đông (Oudong), vua Minh Mạng sai tướng Phạm văn Điển và Nguyễn Tiến Lâm mang quân lên đối phó nhưng không phá được.
Tới đời vua Thiệu Trị mới phát hiện ra là Ngọc Biện bị oan.[13][14] Ngoài ra, cuối đời Minh Mạng (1840), quyền lĩnh Tuần phủ Hà Tiên là Lê Quang Huyên bắt được thư của người Chân Lạp nói về việc họ bị Trấn Tây Tướng quân [Trương Minh Giảng] chèn ép và phái viên đo ruộng nhũng nhiễu về việc mua vàng. Họ cũng không chấp nhận việc Trấn Tây Tướng quân [Trương Minh Giảng] đòi cưới quận chúa Ngọc Vân [Ang Mey] làm vợ.[15][16]
Triệt thoái khỏi Trấn Tây
sửaViệc chiếm đóng Trấn Tây Thành cùng với chính sách cai trị mất lòng dân Chân Lạp của triều đình Huế là một gánh nặng cho đất nước, từ binh sĩ đến lương nhu đều hao thiệt.
Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất [1841], mùa hạ, tháng 4, triều đình cho triệt bỏ các đồn bảo ở phủ Quảng Biên và huyện Khai Biên.[17][18][19]
Triều đình sau đó bàn bạc tình hình Trấn Tây: quân Nguyễn đóng ở thành Trấn Tây đã lâu, bị quân Xiêm, Chân Lạp vây hãm. Nặc Ong Yểm và Ngọc Vân được cho về nước chiêu dụ người Chân Lạp nhưng không đạt được kết quả gì. Các quan ở Trấn Tây xin cho rút về An Giang. Các quan trong triều (Tạ Quang Cự, Trương Đăng Quế, ...) cũng đồng tình: "Chi bằng hãy tạm rút quân về An Giang, để cho vững mạnh bờ cõi căn bản của ta. Rồi sau sẽ nhân thời thế mà làm, đợi cơ hội mà hành động là hơn cả. Duy có, trong khi rút quân về, bọn Kinh lược, Tướng quân phải trấn tĩnh, chia quan quân đóng giữ các nơi, chọn đất cho bọn tên Yểm, Ngọc Vân, Ngọc Thu, Ngọc Nguyên cùng là nhân dân người Kinh và người Thổ được ở yên. Còn như các thớt voi nếu không đưa về được thì cho đem mổ thịt để khao quân lính”." [20][21]
Tháng 9 năm 1841, vua Thiệu Trị thuận theo, truyền cho quan quân Đại Nam rút quân về giữ An Giang.[21][22]
Lợi dụng tình huống bỏ ngỏ Chân Lạp, vua Xiêm đưa Ang Duong lên làm vua Chân Lạp. Chiến sự kéo dài khi quân Việt và quân Xiêm tiếp tục giao chiến từ năm 1841 đến 1845. Năm 1845, triều đình Huế và Vọng Các thỏa hiệp cùng bảo hộ xứ Chân Lạp và nhận triều cống của Ang Duong.
Danh sách địa danh
sửaPhủ huyện thuộc Trấn Tây Thành | ||
---|---|---|
Tên Việt | Chữ Hán | Địa danh tương ứng ngày nay |
Nam Vang | 南榮 | Phnôm Pênh |
Kỳ Tô/Thời Tô (Thời Thâu) | 其蘇/辰蘇 (辰萩) | Srey Santhor,[23] tỉnh Kandal |
Tầm Đôn (Tầm Giun) | 尋敦 (尋惇) | giáp đất Gia Định, có lẽ là Romdoul, tỉnh Svay Rieng |
Tuy Lạp (Xui Rạp, Lôi Lạp) | 綏臘 | giáp đất Gia Định, có lẽ là vùng mỏ vẹt Svay Rieng[24] |
Ba Nam (Ba Cầu Nam) | 巴南 (巴求南) | Peam Ro, Peam Mean Chey, tỉnh Prey Veng |
Ba Lai (Ba Lầy) | 巴來 (巴淶) | Baray, tỉnh Kampong Thom |
Bình Xiêm (Bông Xiêm) | 平暹 (凡暹) | Kampong Siem, tỉnh Kampong Cham[23] |
Kha Bát (Lợi Ỷ Bát) | 哥捌 (利椅捌) | Prey Kabbas, tỉnh Takeo |
Lô Viên (Lô Yêm, Lư An) | 爐圓 (盧淹, 閭安) | phía tây Phnôm Pênh, Lvea Aem, tỉnh Kandal |
Hải Đông (Bông Xui) | 海東 (楓吹) | Kampong Svay,[23] tỉnh Kampong Thom |
Kim Trường | 金長 | giáp An Giang |
Thâu Trung (Phủ Trung) | 輸忠 (中府) | |
Ca Âu (Ca Khu) | 歌謳 (歌塸) | |
Vọng Vân (Trung Hà) | 望雲 (中河) | |
Hà Bình | 河平 | |
Trưng Lai (Trưng Lệ) | 徵來 (征例) | |
Sơn Phủ | 山甫 | |
Sơn Bốc | 山卜 | Sambour |
Tầm Vu (Mạt Tầm Vu) | 尋於 (末尋於) | Tây nam Phnôm Pênh, tỉnh Kampong Speu |
Khai Biên | 開邊 | vùng duyên hải tỉnh Koh Kong[23] |
Hải Tây (Phủ Lật) | 海西 (撫栗) | Pursat[23] |
Kha Lâm (Ca Rừng) | 哥林 (柯棱) | giáp đất Gia Định |
Thê Lạp | 梯笠 | |
Cẩm Bài | 錦牌 | |
Lô Việt | 爐越 | Lovek, tỉnh Kampong Chhnang |
Long Tôn | 龍樽 | phía bắc Phnôm Pênh[23] |
Quảng Biên | 廣邊 | Kampot[23] |
Hóa Di (Ba Di) | 化夷 (巴夷) | |
Chân Tài (Chân Lệ) | 真才 (真例) | đông bắc Phnôm Pênh về mạn Kampong Cham |
Ý Dĩ (Phủ Phủ) | 薏苡 | phía bắc Kampong Chhnang |
Chân Thành (Chân Thiêm) | 真誠 (真占) | huyện Hà Dương, An Giang |
Mật Luật (Ngọc Luật) | 密律 (玉律) | huyện Tây Xuyên, An Giang |
Ô Môn | 烏門 | huyện Phong Phú, An Giang |
huyện Cẩn Chế | 芹制 | Cần Ché |
huyện Cẩn Đô | 芹漇 | Kanhchor (Prek Chamlak) phía nam Cần Ché |
Tham khảo
sửa- ^ Củ Hủ hay Cù Hu, Cổ Hổ, là con rạch chảy qua làng Tứ Điền ở vùng Chợ Thủ, nay thuộc địa bàn hai xã Long Điền A, Long Điền B, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
- ^ Đại Nam thực lục ghi là Chưởng cơ Trà Long và Vệ uý La Kiên
- ^ "Quan hệ giữa Việt Nam - Campuchia -Xiêm Gia đoạn 1834-1848"
- ^ Đại Nam thực lục, Tập 4, chính biên kỷ thứ hai (1834-36)
- ^ Minh Mạng chính yếu. Chuyện đường rừng, tr. 21-22
- ^ Tên huyện ở Trấn Tây.
- ^ Tên huyện ở Hải Đông.
- ^ Tên huyện ở Hải Tây.
- ^ Bộ trưởng Chiến tranh
- ^ hoặc Nhâm Vu. Yomreach (ឧកញ៉ាយោមរាជ - Nhum Rạch) - Bộ trưởng Tư Pháp
- ^ Đại Nam thực lục (Đệ nhị kỷ - quyển CCXIX - 219): Kinh phái Lại khoa Chưởng ấn là Trần Văn Triện dâng sớ nói : bọn thổ phỉ ở Trấn Tây gây biến, đã xét hỏi kỹ lưỡng, thực do ngày thường các viên Thượng ty vỗ về trị dân trái phương pháp, cùng những lưu quan như Tri phủ Hải Tây là Vũ Hành, đòi lấy bạc hối lộ của thổ mục, lại hiếp bắt con gái dân mới quy phụ sung làm gia nô, Tri huyện Trung Hà là Lê Bá Hùng cướp lấy thủy lợi để bán, đặt riêng đồn sở, đòi hỏi thuyền buôn phải đưa lễ vật. Và dân Kinh lính Kinh, cũng cậy thế lấn áp người Thổ, nhiễu tệ nhiều khoé, nên mới sinh chuyện. Vua nói : “Hiện nay đương lúc đánh dẹp, nhất khái đòi gọi tra xét, tưởng cũng chưa tiện. Duy đã chỉ ra từng người từng việc, nếu bỏ đó không hỏi, thì kẻ phạm tội lấy gì để đe nẹt. Vậy Vũ Hành, Lê Bá Hùng, đều trước hết cách chức bắt giam khoá lại, giao cho bọn Doãn Uẩn, Cao Hữu Dực, tra rõ nghiêm nghĩ”. Hai viên ấy sau phải phát đi Trấn Tây làm binh.
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 05). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Chính biên, Đệ tam kỷ, quyển 06: "Xưởng lại tâu : “án của Ngọc Biện khi trước, do Dương Quan Thảo thêu dệt ra, Dương Văn Phong khép buộc vào, Trương Minh Giảng không chịu xét đến căn nguyên, nhất vị y theo, để cho được Ngọc Biện phải chịu oan, bọn thổ dân tức giận, việc biến loạn ở Trấn Tây ngày nay chính là do án ấy khêu gợi ra vậy”. Vua đem việc ấy hỏi Doãn Uẩn, Uẩn thưa rằng : “Thần không dự biết án ấy, chỉ nghe thấy Lê Văn Đức có nói : Ngọc Biện chịu ơn triều đình rất hậu, có gì lại mưu trốn đi, tình cũng đáng ngờ. Vua phán : “Trong việc ấy tất có duyên cớ, nếu không thì Phan Văn Xưởng đâu dám khiếu oan cho con ma người Man, hãy tạm để việc ấy đấy”."
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 06). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 05). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- ^ Đệ nhị kỷ - quyển CCXX - 220, Thực lục về Thánh tổ nhân hoàng đế, Canh Tý, Minh Mệnh năm thứ 21 [1840], mùa đông tháng 12: Quyền lĩnh Tuần phủ Hà Tiên là Lê Quang Huyên tâu nói : người do thám có nhặt được tờ thư của người Man xét thấy lời nói có ý trách oán Trấn Tây Tướng quân [Trương Minh Giảng] và phái viên đo ruộng về tình tệ mua vàng, lời lẽ trong thư phần nhiều không nhã, đã dịch ra chữ Hán, đệ nộp lên bộ. Lại phủ hạt Quảng Biên, lúa ruộng đương chín, bọn thổ phỉ còn ra vào lan tràn quấy nhiễu. Còn như vùng Khai Biên thăm dò không có bọn giặc tụ họp, hiện đã phái thêm binh dũng, hiệp cùng với án phủ là Lê Quang Huyên, Phòng thủ uý là Phạm Văn Sỹ và đạo binh phái đi lùng bắt trước còn lưu lại, lần lượt tiến đến Khai Biên, chia đóng đồn, chỗ yếu hại, để chặn dứt sự ngấp nghé của nước ngoài. Vua dụ viện Cơ mật rằng : “Cứ tỉnh Hà Tiên phát đệ tờ thư của người Man, tựu trung trong thư bảo là : “Tướng quân muốn lấy quận chúa làm vợ, bọn họ không bằng lòng ; lại dùng Dương Quan Thảo làm người trông nom nghe ngóng, đối với họ không từng thân tín, họ cũng phải một mực kính thuận, phàm các công việc sai khiến, đều phải nghe theo. Vì triều đình xa cách, họ bị Tướng quân ức chế đã lâu v.v...”. Thế thì ngày thường bọn họ oán Tướng quân, cũng đã quá lắm. Còn việc mua vàng thì Lê Quang Huyên ở An Giang thuộc hạt khác, không có sự gì kiêng nể. Chuẩn cho lập tức tra rõ, xem người nào có cái tình tệ ấy, thì nghiêm ngặt tham hặc để trị tội, làm răn cho người khác. Xét ra, bọn thổ phỉ tính vốn ngu tối, chắc không thể lấy lời nói phải mà chiêu dụ vỗ về được, tất phải một phen càn quét lớn, mới biết sợ hãi. Còn như con đường Khai Biên, cứ như tình hình tâu báo, thì từ trước tới nay, cũng không có việc gì. Nếu vội đến chia đồn để giữ, thì việc gọi binh, vận lương, đường sá xa xôi, chưa khỏi có phần khó nhọc. Sao bằng trước hết hãy ở địa hạt Quảng Biên đốc suất, kích lệ các quân sĩ, cho sớm dẹp yên, rồi sau chuyển tới địa đầu, chiêu tập nhân dân ở đấy, tuỳ chỗ đặt phòng bị, để bền vững chốn biên cương, là ổn thoả được việc lớn. Lập tức truyền dụ để thi hành”.
- ^ Rút quân đóng đồn ở đồn Quảng Biên. Vua cho rằng dân ở phủ Quảng Biên và huyện Khai Biên ((1) Năm Minh Mệnh thứ 15 [1834] đặt ra 2 phủ Quảng Biên và Khai Biên. Năm thứ 18 [1837] đổi phủ Khai Biên làm huyện, lệ thuộc phủ Quảng Biên.1) vì sợ hãi bỏ đi nơi khác đã lâu, đóng quân ngồi giữ đất không, thì ích gì ! Sai án phủ ở Quảng Biên là Lê Quang Nguyên, Quản cơ lĩnh phòng thủ là Phạm Sĩ đều rút biền binh đóng giữ ở đồn về tỉnh cả.
- ^ Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất [1841], mùa đông, tháng 10, Vua ngự điện Văn Minh, bàn đến việc biên giới ở Hà Tiên. Trương Đăng Quế tâu rằng : “Hiện nay, thành Trấn Tây, đã rút quân về, thì tỉnh Hà Tiên lâm vào thế cô lập, vị tất đã giữ được không xảy ra việc gì. Phủ Quảng Biên ruộng đất màu mỡ là nơi đồn luỹ che đỡ cho tỉnh Hà Tiên. Tôi thiết nghĩ không nên bỏ. Chỉ vì công việc cốt yếu hiện nay là ở việc thôi không dùng binh nhung nữa. Việc giữ phủ Quảng Biên này khó khăn lớn lao, xin đợi sau này sẽ liệu lý dần dần”. Vua phán rằng : “Bọn thổ phỉ sinh chuyện, đã lâu chưa dẹp yên được. Nay mấy đạo quân đi vây nã, bọn giặc tất nhiên rồi cũng trốn đi nơi khác, chỗ ấy thành ra đất không, lấy được cũng không ích gì. Vả lại, phép dụng binh, thu phục lòng người là hơn, nên mở báo cho chúng biết rõ ân tín của ta, để cho đồ đảng chúng rủ nhau về hàng, thì đối với thổ phỉ không cần phải tiễu nữa".
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 06). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- ^ Sai các đại thần bàn rõ về công việc nên làm ở Trấn Tây. Ngoài thành Trấn Tây đều bị bọn giặc ngăn chặn, quan quân chỉ ở trong thành và các đồn chung quanh đóng quân để chống giữ mà thôi. Triều đình thường thúc giục đem quân ra đánh, nhưng cứ cho là gian hiểm quan ngại, kiếm cớ từ chối. Nhiều lần ban chiếu thư xuống nghiêm trách, bọn Trương Minh Giảng chỉ dâng sớ tạ tội mà thôi. Đại thần viện Cơ mật vâng Chỉ vua, viết thư gửi cho các quan ở tỉnh hạt ấy, đại ý nói : “Nay cứ giữ thành hạt có thể giữ được vô sự, hay là đợi tên Yểm trở về, cho nó đi chiêu dụ các thổ dân, trong hai kế ấy, nên làm kế nào ? Hoặc là nay tạm hãy lui quân về giữ tỉnh An Giang, chuyên đi tiễu diệt hai ngả An Giang và Hà Tiên, còn bọn giặc chỗ khác để sau sẽ liệu”. Đến đây, bọn Phạm Văn Điển, Trương Minh Giảng, Nguyễn Công Trứ, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực dâng tập tâu mật nói : “Trước đây xin tha cho tên Yểm về, tưởng cũng là một cơ hội để cho nó đi chiêu phủ bọn thổ dân. Nhưng từ khi tên Yểm được tha về, không thể tự lập được, cũng chỉ dựa vào ta cả, nếu không dùng đến đại binh thì không bao giờ xong việc, mà biền binh thì khó nhọc đã lâu, số người bị ốm đau mỗi ngày thêm nhiều. Cứ giữ mãi thành không, chỉ tổn hại, chứ không ích gì. Xin rút hết quân về tỉnh An Giang, để cho binh lính được đỡ nhọc, mà dân ở Nam Kỳ cũng được nghỉ ngơi”. Tập tâu này được giao xuống cho văn võ đại thần họp bàn. Bọn Tạ Quang Cự, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Tăng Minh, Võ Xuân Cẩn, Trương Đăng Quế, Lê Đăng Doanh, Hà Duy Phiên, Nguyễn Trung Mậu, Phan Bá Đạt, Doãn Uẩn và Phan Thanh Giản đều nói : “Hiện nay, sang thu, nước lớn, đường đi không thông đồng, nếu dùng binh thì lương vận không tiếp tục được, mà đóng đấy để giữ thì chỉ khó nhọc hão mà không có công trạng gì. Bọn chúng tôi đã tính đi tính lại vài ba lần, cũng không có kế sách gì hơn nữa. Chi bằng hãy tạm rút quân về An Giang, để cho vững mạnh bờ cõi căn bản của ta. Rồi sau sẽ nhân thời thế mà làm, đợi cơ hội mà hành động là hơn cả. Duy có, trong khi rút quân về, bọn Kinh lược, Tướng quân phải trấn tĩnh, chia quan quân đóng giữ các nơi, chọn đất cho bọn tên Yểm, Ngọc Vân, Ngọc Thu, Ngọc Nguyên cùng là nhân dân người Kinh và người Thổ được ở yên. Còn như các thớt voi nếu không đưa về được thì cho đem mổ thịt để khao quân lính”. Vua cho rằng từ khi Trấn Tây có việc binh đao đến giờ, sáu tỉnh Nam Kỳ, binh và dân đều nhọc mệt, triều đình cũng khó nhọc tổn phí không biết đâu mà kể, ý đã chán việc binh đao, vả lại sang năm sau có việc tuần du ra Bắc, hãy tạm xếp việc Trấn Tây lại không nghĩ đến, cũng chẳng hại gì, mới dụ rằng : “Sự thế hiện nay buộc phải như thế, chuẩn cho theo lời bàn mà làm. Các viên từ Kinh lược, Tướng quân cho đến Tán lý và Hiệp lý không làm được công trạng gì, đều giao cho bộ Hình nghiêm ngặt nghị tội từng viên có khác nhau”. Lại dụ cho tất cả các đại thần ở trong sáu tỉnh Nam Kỳ rằng : "Triều đình làm việc này là có ý muốn cho dân được nghỉ ngơi, vì ta không nỡ lấy đất đai là vật không đáng quý mà làm khổ dân là thứ đáng quý, chứ không phải có kém gì đâu. Phải nên thể theo đức ý của ta, hết lòng vỗ yên : thôn dân người nào lưu tán thì gọi về mà phủ dụ, đồng ruộng chỗ nào bỏ hoang thì khai khẩn, nhân dân người nào đói thì cứu tế cho, người nào túng thiếu thì tư giúp cho, cấm ngăn trộm cướp, hoà hợp nhân dân. Bên trong đã yên thì kẻ đối địch bên ngoài có thể không phải cần đến binh lực mà họ tự phải phục”.
- ^ a b Đại Nam thực lục, tập 06.
- ^ Tháng 9, quan quân ở Trấn Tây rút về đóng giữ ở tỉnh An Giang. Ngày hôm ấy, Trương Minh Giảng chết. Trước đây, công việc sửa sang ở Trấn Tây, công của Minh Giảng nhiều hơn cả. Đến đây, rút quân về, trong lòng uất ức, vừa xấu hổ vừa tức bực, cáo ốm không tiếp các tướng hiệu, về đến An Giang thì chết. Bọn Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ đem việc Giảng ốm chết tâu lên. Vua nghe tin Giảng chết, phán rằng : “Giảng đảm đương sự ký thác nặng nề, chỉ vì việc trị dân và chống giặc không đúng phương pháp, cho nên thổ dân cùng nổi lên làm loạn, để triều đình phải bận đến việc phái quân đi tiễu bắt, đã lâu ngày mà chưa xong việc. Đã giao cho bộ nghiêm ngặt nghị tội. Không ngờ đại binh vừa mới về đến nơi, đã ốm chết rồi. Ta nghĩ : Giảng năm trước đây, làm Tham tán quân vụ, khiến giặc ở Biên Hoà và Vĩnh Long sợ mất vía, lại đánh được quân Xiêm ở Thuận Cảng. Công trạng rõ rệt, khắc vào bia đá cũng không thể mất được. Chuẩn cho truy đoạt lại chức Trấn Tây Tướng quân, để cho rõ tội, nhưng gia ơn cho chiếu theo phẩm hàm Đại học sĩ mà cấp cho tiền tuất ; lại thưởng cho 5 cây gấm Trung Quốc, 5 cây sa các màu, 20 tấm lụa, 30 tấm vải và 1 000 quan tiền, tha cho không phải truy nghị tội nữa. Lại thu lại lương bổng hàm thất phẩm chi cho con trai là Trương Minh Thi khi trước. Cho bọn Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Trứ, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực được giữ nguyên hàm quản lĩnh quan quân đóng giữ ở An Giang, hiệp đồng với nhau bàn công việc làm. Còn các chức hàm về kinh lược, tham tán, tán lý, đề đốc và hiệp tán ở Trấn Tây của các viên này đều phải cách và thu lại cả ; những ấn triện quan phòng, cờ bài, cờ rồng và ấn quan phòng hai đạo binh lương đều đem về bộ nộp lại. Các viên dịch trong ty An biên khi trước, thì chia bổ vào những chân khuyết thông phán và kinh lịch ở sáu tỉnh Nam Kỳ ; còn số thừa thì rút về Kinh có khuyết đâu sẽ bổ".
- ^ a b c d e f g [Tập_tin:NamKy1860.jpg]
- ^ thượng nguồn sông Vàm Cỏ vốn có tên là sông Soai Rạp
Xem thêm
sửaTài liệu tham khảo
sửa- "Trấn Tây phong thổ ký”: The Customs of Cambodia, Chinese Southern Diaspora Studies Volume 1, 2007 Lưu trữ 2021-07-09 tại Wayback Machine
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 01). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2002.
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 02). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 03). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 04). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 05). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 06). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 07). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.