Ovalipes catharus
Ovalipes catharus, thường được gọi là cua mái chèo,[a] hay cua bơi,[b] hoặc tiếng Māori: pāpaka,[8] là một loài cua thuộc họ Ovalipidae.[4][9] Loài này được tìm thấy ở vùng nước nông, đáy cát xung quanh bờ biển New Zealand, quần đảo Chatham và hiếm khi thấy ở miền nam Úc.[1][2][3] Đây là loài kiếm ăn cơ hội, hung dữ và có tập tính hoạt động đa dạng, chủ yếu hoạt động vào ban đêm, chúng chủ yếu săn bắt động vật thân mềm và giáp xác.[10][11][12] Loài này có thói quen ăn thịt đồng loại, chiếm hơn một phần tư chế độ ăn của chúng ở một số địa điểm mà loài này sinh sống.[13] Chân sau có hình mái chèo và mai cua thuôn dài cho phép chúng bơi nhanh để bắt con mồi và đào cát vùi mình để thoát khỏi bị loài khác săn.[14] Mùa sinh sản là vào mùa đông và mùa xuân; con đực mang theo con cái cho đến khi con cái lột xác, sau đó hai con giao phối và con cái có thể di chuyển vào vùng nước sâu hơn để ấp và phát tán ấu trùng của nó.[15][16]
Ovalipes catharus | |
---|---|
![]() | |
![]() | |
Phân loại khoa học ![]() | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Arthropoda |
Phân ngành: | Crustacea |
Lớp: | Malacostraca |
Bộ: | Decapoda |
Họ: | Ovalipidae |
Chi: | Ovalipes |
Loài: | O. catharus
|
Danh pháp hai phần | |
Ovalipes catharus (White trong White and Doubleday, 1843) | |
![]() | |
Các vùng bờ biển có Ovalipes catharus sinh sống.[1][2][3] | |
Các đồng nghĩa[4] | |
|
Từ những năm 1970, nghề thủy sản thương mại đã đánh bắt O. catharus, với sản lượng đánh bắt giảm đáng kể so với mức đỉnh điểm vào cuối những năm 1990.[17] Số lượng của loài này dự kiến sẽ tăng lên,[11] mặc dù các nhà sinh thái học đã nêu lên mối lo ngại rằng O. catharus có thể bị Charybdis japonica, một loài xâm lấn có kích thước, chế độ ăn và môi trường sống tương tự cạnh tranh.[18] O. catharus hiện diện trong văn hóa Māori vừa là một họa tiết nghệ thuật vừa là nguồn thực phẩm truyền thống.[19]
Mô tả
sửaOvalipes catharus có mai hình bầu dục, thuôn dài và hơi sần sùi với năm điểm trên mai nhô ra khá lớn, các điểm đó trông giống răng cưa, chúng nằm ở hai bên mắt và bốn điểm nhỏ hơn nằm ở phía trước giữa hai mắt.[1][14][20] Mai có hai đốm mắt lớn màu hạt dẻ ở phía sau, hai đốm mắt nhỏ hơn gần phía trước mai và các rãnh cổ[c] tạo thành một vết lõm hình con bướm gần tâm của mai cua.[1][22][23] Nhìn tổng quan, mai có màu xám cát với các điểm nhấn màu đỏ cam và rải rác những đốm nhỏ màu nâu.[1][24] Bụng của cua có màu trắng, chân sau của nó dẹt và có màu tím, có chức năng như mái chèo bơi.[1][25] Vùng trên miệng gần gốc râu có lông và một đường lông cứng chạy từ gốc hốc mắt sâu ra đến khu vực bên dưới răng cưa của mai cua.[20] Giống như các loài Ovalipes khác, O. catharus có đôi mắt phát triển tốt, tương đối lớn.[14][26] Tuy nhiên, không giống so với khoảng một nửa số loài Ovalipes đã biết, loài này không biểu hiện lấp lánh như một hình thức báo hiệu.[27]
Loài có chi trước là một cặp càng tương đối ngắn có gai và hạt trên cổ càng và có lông ở viền sau của càng.[20] Càng bên trái (càng phụ) nhỏ hơn càng bên phải (càng chính) và cả hai ngón của càng đều mảnh và thon.[28] Càng nhỏ phát triển theo tỷ lệ thuận với chiều rộng mai cua ở con cái, nhưng nó có thể biểu hiện tương quan sinh trưởng (phát triển nhỏ hơn theo tỷ lệ) ở con đực.[29][d] Càng nhỏ được dùng để cắt, được phân bổ những chiếc răng hình nón nhỏ trên cả hai ngón càng, trong khi càng lớn cũng có một chiếc răng gần lớn được sử dụng để nghiền nát.[31] Nó có ba cặp chân dùng để bò,[e] có hạt và tương đối phẳng. [1][34] Các chân mái chèo phía sau phẳng, chạy dọc chân là viền bằng lông.[1]
O. catharus đực trưởng thành có thể đạt chiều rộng mai cua lên tới 150 mm (5,9 in),[11] và những con đực lớn nhất nặng khoảng 600–700 g (21–25 oz).[35] Những con cái trưởng thành về mặt sinh dục thường có chiều rộng mai cua > 70 mm (2,8 in) và rộng tới khoảng 115 mm (4,5 in).[36][37] Những con non nhỏ nhất có xu hướng cư trú ở vùng nước nông khoảng 0,1–0,5 m (0,33–1,6 ft), trong khi vùng nước sâu hơn từ 5–15 m (16–49 ft) thường là nơi sinh sống của những cá thể lớn nhất và trưởng thành nhất.[38] Kích thước bụng ở con đực và con cái non phát triển dần theo tỷ lệ thuận với chiều rộng mai cua, nhưng sau khi chiều rộng mai cua đạt 30–40 mm (1,2–1,6 in), bụng của con cái biểu hiện tương quan sinh trưởng dương.[29][39][f] Chiều dài mai cua tương đối giảm dần so với chiều rộng khi cua lớn lên.[29] Trung bình, mai cua rộng hơn chiều dài khoảng 1,35 lần.[20]
O. catharus có thời gian phát triển con non dài hơn so với các loài giáp xác mười chân khác – khoảng hai tháng với tám giai đoạn ấu trùng giáp xác.[41][42] Trong quá trình sinh trứng, một noãn bào bắt nguồn từ một tế bào lưỡng bội cỡ nhỏ, ban đầu nó có đường kính từ 5–25 μm; sau đó nó phát triển đến khoảng 0,32 mm (0,013 in).[43] Trứng gần như có hình cầu, từ màu vàng với xấp xỉ 0,3 mm (0,012 in) đường kính chuyển sang màu đen với khoảng 0,37 mm (0,015 in) đường kính trong khoảng một tháng sau đó ngay trước khi chuyển thành ấu trùng cua non.[42][44] Dạng ấu trùng trong suốt hoặc màu đen, sau đó phát triển các tế bào sắc tố màu đỏ, và sau đó chuyển sang màu đen khi lột xác thành ấu trùng trưởng thành.[42] Dạng ấu trùng có gai lưng nổi bật và gai mỏ cũng nổi bật tương tự cùng hai gai bên nhỏ hơn.[42] Ở dạng ấu trùng đầy đủ, mỏ tương đối nhỏ hơn nhiều và mai cua dài khoảng 4,65 mm (0,18 in) hoàn toàn nhẵn.[42] Sau dạng ấu trùng đầy đủ, O. catharus có 13 giai đoạn phát triển riêng biệt, được gọi là các giai đoạn lột vỏ giáp xác, và đạt kích thước tối đa khi được 3–4 tuổi.[45] Người ta nghi ngờ rằng sự phát triển này chỉ bị giới hạn bởi tuổi thọ của nó và nếu không, nó có thể tiếp tục lột xác vô thời hạn một lần mỗi năm.[46] Các cá thể cua của quần thể O. catharus biệt lập từ quần đảo Chatham có xu hướng lớn hơn và mất nhiều thời gian hơn để trưởng thành so với những con cua ở đất liền New Zealand.[41][47] Tuổi thọ đầy đủ của loài này là 3–5 năm.[48]
Sinh lý và giải phẫu nội tạng
sửaO. catharus là một loài có thể thích nghi thẩm thấu hoặc là một loài điều hòa thẩm thấu yếu.[49] Nó có thể đảo ngược hướng dòng thông khí bằng cách điều chỉnh kích thước lỗ mở nằm ở gốc chân, được cho là một phương cách để ngăn các hạt vật chất cản trở các lỗ mở này.[50] Các lỗ mở dẫn vào khoang mang và được bao phủ bởi các lông dày đặc có chức năng lọc.[51] Không giống như hầu hết các loài giáp xác mười chân khác, giai đoạn dòng chảy ngược này có thể được duy trì và thường được nhìn thấy khi cua vùi mình trong cát hoặc lúc nó đang nghỉ ngơi.[52]
Tim của nó là tâm thất một ngăn đẩy máu hemolymph đến bảy động mạch.[53] Năm động mạch trong đó bao gồm động mạch chủ trước, dẫn máu khỏi tim cung cấp cho các cơ quan như hạch não, mắt, râu, gan tụy và nhiều cơ quan tiêu hóa khác.[53] Một động mạch dẫn máu khỏi tim đến phía bụng, được gọi là động mạch ức và chiếm gần 70% lưu lượng máu; động mạch này phân nhánh thành các mạch cung cấp máu cho năm cặp chân và càng của nó, trong đó lớn nhất là những mạch cung cấp máu cho các chân mái chèo phía sau của nó.[54] Cuối cùng, một động mạch chủ sau tương đối nhỏ chạy xuống giữa bụng của con cua.[55]
O. catharus là loài động vật thân mềm rất nhạy cảm với nhiệt độ.[56] Nhiệt độ nước chỉ tăng vài độ thôi sẽ đẩy nhanh đáng kể sự phát triển của nó.[57] Vào mùa hè khi nhiệt độ khoảng 20 °C (68 °F), nhịp tim của loài cua này là khoảng 50 nhịp/phút.[58] Trên nhiệt độ này, nhịp tim của nó bắt đầu chậm lại.[56] Ở nhiệt độ 25 °C (77 °F) nhịp tim của nó tăng gấp đôi lên 125 nhịp/phút,[59] và ở nhiệt độ khoảng 30 °C (86 °F) nó sẽ chết.[56] Sự phosphoryl hóa ADP trong quá trình hô hấp cũng giảm ở nhiệt độ trên 20 °C (68 °F), cho thấy khả năng sản xuất ATP của ty thể giảm.[60] Ở nhiệt độ khoảng 10 °C (50 °F) – gần mức thấp nhất so với nhiệt độ mà nó trải qua trong tự nhiên[61] – O. catharus cần được khuyến khích ăn tích cực, nhìn chung chúng ăn ít hơn và mất nhiều thời gian hơn gấp ba lần để tiêu hóa thức ăn so với ở nhiệt độ 20 °C (68 °F).[62][63]
O. catharus nghe dưới nước bằng cách sử dụng hệ thống ống nhỏ nằm dưới ăng-ten đầu tiên của nó được gọi là nang thăng bằng.[64] Nang này chứa một khối kết tụ các hạt cát được gọi là statolith và có chức năng tương tự như otolith (sỏi tai) ở động vật có xương sống.[65] Cua có thể nghe thấy âm thanh trong khoảng thấp nhất 40–2000 Hz, nhưng nó đặc biệt nhạy cảm với phạm vi từ 100–200 Hz.[66] Nó sử dụng một cơ chế bên trong hiện vẫn chưa được biết đến để tạo ra âm thanh "khàn khàn" tần số rộng đa xung, với giả thuyết được đưa ra là để truyền đạt thông tin có thức ăn cho các thành viên khác trong loài.[67] Con đực cũng sử dụng một cơ chế bên trong chưa được biết đến để tạo ra âm thanh siêu trầm được dùng trong hành vi giao phối của chúng.[68]
Phân loại
sửaTrong tiếng Anh, Ovalipes catharus có tên gọi thông thường là "paddle crab" (tạm dịch: cua mái chèo) hoặc "common swimming crab" (tạm dịch: cua bơi phổ thông).[7] Trong tiếng Māori là pāpaka.[8] Nó được mô tả vào năm 1843 bởi nhà động vật học Adam White từ một mẫu vật tại Bảo tàng Anh được thu thập bởi Andrew Sinclair.[24] Mặc dù White đã xếp nó vào chi Portunus,[24] các nhà sinh vật học biển là William Stephenson và May Rees vào năm 1968 đã xếp nó vào chi Ovalipes dựa trên các mẫu sắc màu của nó.[69] Giống như ba loài khác trước năm 1968, nó đã từng bị nhầm lẫn với O. punctatus, O. catharus là một phần của một nhóm riêng biệt gọi là Ovalipes, bao gồm cả O. australiensis, O. elongatus, O. georgei, O. punctatus và O. trimaculatus.[70][g] O. catharus cũng rất giống (và có khả năng là một loài đồng nhất) với một mảnh móng hóa thạch (móng trên càng cua) từ Thế Pleistocen Muộn của New Zealand.[72][73] Có ba đặc điểm đáng tin cậy kết hợp lại giúp phân biệt O. catharus với các thành viên khác của Ovalipes: các hột nhỏ trên các sống gồ ghề ở mặt trên của càng cua, các sọc ở mặt dưới của càng, và một mai cua rộng (~1,35 lần rộng hơn chiều dài).[20] Biểu đồ phân loài sau đây dựa trên hình thái cho thấy mối quan hệ giữa O. catharus và các loài Ovalipes khác còn tồn tại:[74][h]
Ovalipes |
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Phân bố và môi trường sống
sửaO. catharus là loài bản địa của New Zealand, nó có thể được tìm thấy từ Đảo Stewart đến Northland và ở quần đảo Chatham.[3][25] Nó cũng hiện diện dù không phổ biến ở bờ biển phía nam của Australia, từ viễn tây bang South Australia và đến Vịnh Port Phillip thuộc Victoria ở viễn đông.[1][2][42] Nó sống dọc theo các vùng đáy cát ven biển, thường ở độ sâu <10 m (33 ft) trong các cửa sông và khu vực cận bờ biển,[75][37][76] nó di chuyển vào khu vực gian triều vào buổi tối hoặc ban đêm để kiếm ăn.[11] Nó thường chôn mình trong trầm tích suốt cả ngày.[14] Mặc dù nó thường trụ ở các vùng nước nông, nhưng có thể tìm thấy ở độ sâu lên đến 100 m (330 ft),[75] và ấu trùng cua non có thể được tìm thấy ở độ sâu lên đến ít nhất 700 m (2.300 ft).[47] Cua con thường được thấy ở vũng biển kín sau khi chúng di cư vào bờ trong thời kỳ sinh trưởng ấu trùng.[41] Con đực và con cái tập hợp lại ở các vịnh kín gió trong mùa sinh sản mùa đông và mùa xuân.[77] Sau đó, con đực di chuyển ra các bãi biển rộng và lớn vào mùa xuân, trong khi con cái di chuyển đến các khu vực không xác định - được cho là khu vực sinh sản có mực nước sâu hơn để ấp trứng.[78] Thông tin từ các nguồn không chính thức cho thấy sự gia tăng số lượng O. catharus đáng kể kể từ những năm 1970.[11]
Chế độ ăn uống và hành vi kiếm ăn
sửaChế độ ăn của O. catharus chủ yếu bao gồm động vật thân mềm (đặc biệt là chi Paphies), động vật giáp xác, cá, giun lông và tảo.[80][11][81] Những con O. catharus lớn thường ăn ít hơn, chủ yếu chúng ăn tảo cũng như các động vật lớn hơn như giáp xác mười chân và cá xương, trong khi những con cua nhỏ hơn thường xuyên săn mồi những động vật giáp xác nhỏ và mềm hơn như động vật giáp xác mềm, chân đều, mysida và tôm dấu phẩy.[82] Nó cũng thường xuyên ăn thịt đồng loại nhỏ hơn và những con vừa mới lột xác.[83][84] Các cá thể O. catharus khác thường chiếm ít nhất vài phần trăm chế độ ăn của O. catharus, và ở một số địa điểm như Plimmerton và Paremata, tỉ lệ này lên đến hơn 25%.[85] Nó có xu hướng ăn nhiều hơn vào mùa hè so với mùa đông.[62][63] Vẫn chưa rõ sự khác biệt về chế độ ăn giữa con đực và con cái.[10]
Chân sau phẳng và hình dạng cơ thể thuôn gọn của cua cho phép nó bơi với tốc độ 1 m/s (2,2 mph) và bắt mồi nhanh.[25][14][86] Nó cũng có các càng mảnh và thon, rất phù hợp để giữ và xé thịt các động vật thân mềm nhỏ,[31] các động vật thân mềm mà nó ăn thường có chiều dài dưới 4 mm (0,16 in).[87] Càng cua có sự khác biệt, thể hiện hai hình dạng khác nhau: bên trái được sử dụng để cắt trong khi bên phải được sử dụng để nghiền. Các chi mái chèo cho phép cua giữ thăng bằng và giúp ổn định trên đôi chân bò thứ ba của nó khi đào các con nghêu ra khỏi cát.[88]
Con mồi và các tương tác khác
sửaCác loài là con mồi của O. catharus bao gồm cá nhám gai (Squalus acanthias),[89] cá tráp biển bạc (Pagrus auratus),[14] cá nhám trơn cửa sông (Mustelus lenticulatus),[90] cá mú hāpuku (Polyprion oxygeneios),[14] cá heo Hector,[91] Thalassarche bulleri,[92] và loài cua xâm lấn Charybdis japonica.[93] Những con cua non dễ bị đồng loại ăn thịt, và tất cả O. catharus đều dễ bị như vậy trong quá trình lột xác.[83] Ngành đánh bắt thủy sản thương mại cũng đánh bắt O. catharus.[94] Để thoát khỏi bị săn mồi, O. catharus đào các hang cát tạm thời trong cát mềm bằng cách sử dụng các chi mái chèo của nó, nó mất trung bình chỉ vài giây để hoàn toàn chìm xuống bằng cách làm lỏng cát và vùi thân mình của nó vào trong nền cát.[95] Nó nằm yên ở vị trí dưới nền của mặt cát khoảng 10–20 mm (0,39–0,79 in), đôi khi để đôi mắt của nó nhô lên.[33]
Các nhà sinh thái học đã bày tỏ lo ngại rằng Charybdis japonica xâm lấn đang mở rộng phạm vi ở New Zealand, chúng có thể cạnh tranh với O. catharus nhờ vào kích thước và chế độ ăn tương đồng, một phần chúng đồng phân bố về môi trường sống, tính hung dữ cao, khả năng vượt trội O. catharus trong cuộc cạnh tranh một-một về thức ăn, và do biến đổi khí hậu toàn cầu mà chúng có khả năng chịu nhiệt tốt hơn.[18][96][97] O. catharus dường như ít bị ảnh hưởng bởi các loài ký sinh phổ biến có mặt là C. japonica;[76] chả hạn, nó không có dấu hiệu bị ký sinh bởi giun đốt Serpulidae, giun tròn hoặc hà.[98] Phần lớn O. catharus[i] thì lại là vật chủ của loài ctenosome bryozoan Triticella capsularis hình thành lớp lông dày tới gần 10 mm (0,4 in) ở mặt dưới cua sau lần lột xác cuối cùng.[99][98] Chúng chỉ được tìm thấy trên O. catharus,[99] và được cho là một sinh vật cộng sinh bắt buộc của O. catharus.[100]
Giao phối và sinh sản
sửaOvalipes catharus trải qua quá trình lột xác dậy thì khi mai cua đạt chiều rộng khoảng 50–60 mm (2,0–2,4 in) và đạt được độ trưởng thành sinh dục trong năm đầu đời sống ở vùng đáy nước.[39][101][f] Nhiệt độ ấm hơn khiến cho mùa sinh sản kéo dài hơn, thúc đẩy sự phát triển và dẫn đến quá trình trưởng thành sinh dục diễn ra sớm hơn, từ đó làm thay đổi thời gian giao phối giữa các quần thể.[102][103] Cua đực và cua cái bắt đầu tụ tập ở các vịnh nông có nơi trú ẩn vào mùa đông để giao phối,[102] còn quá trình sinh sản thì diễn ra từ tháng 5 đến tháng 11, cũng là thời điểm cua cái vừa lột xác.[104] Để đối phó với sự cạnh tranh từ những con cua đực khác sinh sống ở gần cua cái đang giao phối, cua đực trở nên hung dữ và sử dụng âm thanh để giao tiếp. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ các âm thanh này được gửi đến cua cái, cua đực cạnh tranh hay cả hai.[105] Cua đực phát ra hai âm thanh xen kẽ: âm thanh "zip" tần số thấp-tầm trung có nhiều nhịp được tạo ra khi cua chà các gờ ở mặt dưới của càng vào một khớp giống như miếng gảy đàn ở cặp chân bò đầu tiên; và một loạt tiếng rung sub-bass dao động với cơ chế tạo ra vẫn còn là ẩn số.[106] Âm thanh "zip" kèm theo màn trình diễn, trong đó cua "di chuyển về phía trước và lắc cả hai chi mái chèo theo chuyển động xoắn", có thể là một hành vi tán tỉnh.[68]
Một con O. catharus đực chỉ có thể giao phối với một con O. catharus cái có cơ thể mềm trong khoảng bốn ngày sau khi nó lột xác,[107][j] vì vậy nó giữ một con cái trước lúc lột xác dưới cơ thể của mình trong tối đa 10 ngày trước khi giao phối.[108][109] Một con cua đực đang đói thường sẽ tránh việc ăn thịt bạn tình của nó;[110] thay vào đó, nó có xu hướng bảo vệ con cái trong suốt quá trình giao phối, kéo dài từ 12 đến 36 giờ và thậm chí lên đến bốn ngày.[111][112] Sau khi giao phối và tách ra, cua đực có thể tiếp tục nhận diện bạn tình của nó để tránh ăn thịt đồng loại trong khi cơ thể của con cái vẫn còn mềm, nhưng đôi khi việc ăn thịt vẫn xảy ra.[110] Việc con đực bảo vệ con cái đang trong tình trạng dễ bị thương tổn do lột xác được giả thuyết là lý do khiến một số địa điểm có tỷ lệ giới tính lệch về phía cua cái.[113]
Cua cái được cua đực thả ra sau khi giao phối và di chuyển đến khu vực đẻ trứng, có thể là vùng nước sâu hơn.[102] Không rõ có bao nhiêu lô trứng có thể được thụ tinh từ một lần thụ tinh, nhưng theo quan sát cua cái mang lên tới bốn hoặc năm lô trứng mà không cần giao phối lại.[114][115] Số lượng trứng trong mỗi lô có tương quan mạnh mẽ với chiều rộng mai cua và khối lượng cơ thể, những con cua lớn và nặng hơn sinh sản nhiều hơn.[111] Trong một lô trứng, cua cái được tìm thấy đã sinh sản từ ít nhất 80.000 đến nhiều nhất 850.000 trứng, và một con cua lớn có chiều rộng mai cua khoảng 100 mm (3,9 in) thường sinh sản khoảng 500.000 trứng.[116][37] Tuy nhiên, giống như ở các loại cua khác, một tỷ lệ trong số này bị mất do bệnh tật, trứng hỏng và bị săn mồi.[116] Ấu trùng phát triển đồng bộ và thường được phát hành ra môi trường vào ban đêm.[117][107] Trứng được phát ra với số lượng lớn thông qua việc vẫy mạnh của cơ thể cua cái, điều này làm va đập các vỏ trứng và khiến chúng bị nứt ra.[107] Khi phát hành, cua cái duỗi chân để định vị cơ thể nó cao nhất có thể so với đáy biển.[117] Sau đó, nó nghiêng cơ thể lên một chút và bắt đầu uốn cong bụng để phát ra những đám ấu trùng lớn.[117] Cua cái thường phát hành tất cả ấu trùng trong một lần, nhưng ở một số địa điểm, chúng sẽ phát hành ấu trùng theo nhiều lô trứng.[11][118] Mùa sinh sản thường diễn ra từ tháng 9 đến tháng 3.[104][118] Tổng cộng, một con O. catharus cái có thể sinh sản lên đến khoảng 10 lô trong suốt cuộc đời trong bốn mùa sinh sản.[119]
Mối quan hệ với con người
sửaOvalipes catharus nổi tiếng là một loài cua hung dữ ở các bãi biển khi thường xuyên kẹp những người tắm biển ở New Zealand,[19][1] và những người đi biển cũng thường xuyên nhìn thấy vỏ của O. catharus trôi dạt vào bờ.[7] Loài cua này là một chủ đề phổ biến trong nghệ thuật Māori, với các thiết kế được tích hợp vào các mẫu dệt may, tā moko (hình xăm mặt), và các thiết kế của wharenui (nhà hội nghị) và whare wānanga (nhà học tập).[19] O. catharus là nguồn thực phẩm truyền thống, nhưng các nhà nghiên cứu trong thời kỳ tiền thuộc địa không ghi lại nhiều về các tập tục thu hoạch.[19]
Ngành đánh bắt thủy sản thương mại đã nhắm vào O. catharus từ cuối những năm 1970, chủ yếu ở phía đông của Đảo Bắc và phía bắc của Đảo Nam.[120][121] O. catharus nổi tiếng với thịt có cả hương vị và kết cấu tốt,[122][123] và sản lượng đánh bắt được bán ở trong nước New Zealand và xuất khẩu sang Nhật Bản.[124][k] Sản lượng Ovalipes catharus nói chung đã tăng lên cho đến cuối những năm 1990, đạt đỉnh ở mức 519 tấn (1.144.000 lb) trong các năm 1998-1999, sau đó chúng bắt đầu giảm dần trong hai thập kỷ tiếp theo, và đạt trung bình 16,6 tấn (37.000 lb) hàng năm trong khoảng thời gian 5 năm từ 2017-2022.[126] Trong khi phần lớn sản lượng đánh bắt trong những năm 1990 và 2000 đến từ bờ biển phía đông của Đảo Bắc và bờ biển phía tây của Đảo Nam, điều này đã giảm mạnh trong những năm 2010, và sản lượng đánh bắt trong những năm 2020 đến nay chủ yếu đến từ bờ biển phía đông của Đảo Nam.[121][127] Nguyên nhân sản lượng đánh bắt giảm sút chưa được biết rõ.[47][128]
Ghi chú
sửa- ^ Tên tiếng Việt tạm dịch của "paddle crab". Đôi khi gọi là "New Zealand paddle crab" (tạm dịch: cua mái chèo New Zealand)[5][6]
- ^ Tên tiếng Việt tạm dịch của "swimming crab". Đôi khi gọi là "common swimming crab" (tạm dịch: cua bơi phổ thông)[7]
- ^ Cổ của một số loài không rõ ràng, khó phân biệt được vùng đầu, cổ và phần còn lại của cơ thể.[21]
- ^ Điều này bị tranh cãi vì kỳ quặc về mặt thống kê.[30]
- ^ Một số nguồn kê khai các chi mái chèo phía sau như cặp chân để bò và gọi chúng một cách độc lập,[32] trong khi những nguồn khác coi chúng như cặp chân bò phía sau cùng.[33]
- ^ a b Quá trình lột xác tuổi dậy thì ban đầu được xác định từ độ rộng mai cua khoảng 40 mm (1,6 in) ở con đực và khoảng 30–40 mm (1,2–1,6 in) ở con cái,[40] nhưng nhận định này có thể là sai lầm, sự thay đổi này tương ứng với giai đoạn bán trưởng thành với biểu hiện phát triển tương đối gia tăng các đặc điểm sinh dục thứ cấp, chứ không phải là sự trưởng thành về mặt sinh dục.[39]
- ^ Nhóm này – một trong hai nhóm – được phân biệt với phần còn lại của Ovalipes bằng các đặc điểm như móng càng ngắn, răng lớn ở cả hai bên phía trước mai cua và một đoạn cuối hình tam giác của bụng con đực.[71]
- ^ Ovalipes nằm trong phân loại Ovalipidae.[9]
- ^ 97,4% Ovalipes catharus được khảo sát từ sáu địa điểm là vật chủ của Triticella capsularis.[98]
- ^ Sau bốn ngày, mai của cua cái sẽ trở nên quá cứng để có thể giao phối.[107]
- ^ Vào những năm 1980, người ta đã tiến hành nghiên cứu về việc xuất khẩu sang Hoa Kỳ, nhưng đã thất bại do hàng hư hỏng và thị trường không chuộng mặt hàng này.[125][122]
Chú thích
sửa- ^ a b c d e f g h i j Wilkens, Serena L.; Ahyong, Shane T. (2015). Coastal Crabs: A Guide to the Crabs of New Zealand (PDF) (bằng tiếng Anh) . NIWA. tr. 43.
- ^ a b c O'Hara, Tim; Barmby, Victoria (tháng 5 năm 2000). Victorian Marine Species of Conservation Concern: Molluscs, Echinoderms and Decapod Crustaceans (Bản báo cáo) (bằng tiếng Anh). Victoria Department of Natural Resources and Environment. tr. 45. ISBN 0-7311-4561-5 – qua ResearchGate.
- ^ a b c McLay 1988, tr. 200.
- ^ a b WoRMS. “Ovalipes catharus (White in White & Doubleday, 1843)”. Cơ sở dữ liệu sinh vật biển.
- ^ Flood, Goeritz & Radford 2019, tr. 1.
- ^ Haddon 1994, tr. 1.
- ^ a b c Ahyong, Shane T. (29 tháng 4 năm 2010). “Summer Series 2: Cannibals of the seashore” (bằng tiếng Anh). NIWA. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2024.
- ^ a b Moorfield, John C. “pāpaka”. Te Aka Māori Dictionary (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2022.
- ^ a b Poore, Gary C.B.; Ahyong, Shane T. (2023). Marine Decapod Crustacea: A Guide to Families and Genera of the World (bằng tiếng Anh). CRC Press. tr. 695–696. doi:10.1071/9781486311798. ISBN 978-1-4863-1178-1. LCCN 2021388782.
- ^ a b Wear & Haddon 1987, tr. 39, 41.
- ^ a b c d e f g Fisheries New Zealand 2023, tr. 1038.
- ^ Haddon 1995, tr. 256.
- ^ Wear & Haddon 1987, tr. 40, 44.
- ^ a b c d e f g h McLay & Osborne 1985, tr. 125.
- ^ Haddon 1994, tr. 331.
- ^ Osborne 1987, tr. 58, 84–86.
- ^ Fisheries New Zealand 2023, tr. 1035.
- ^ a b Fowler, Muirhead & Taylor 2013, tr. 672.
- ^ a b c d Vennell, Robert (5 tháng 10 năm 2022). Secrets of the Sea: The Story of New Zealand's Native Sea Creatures. (bằng tiếng Anh) HarperCollins Publishers. tr. 78–83. ISBN 978-1-77554-179-0, LCCN 2021388548. Wikidata Q114871191.
- ^ a b c d e f Stephenson & Rees 1968, tr. 225.
- ^ Roesch, Zachary K.; Tadi, Prasanna (2022), “Anatomy, Head and Neck, Neck”, StatPearls (bằng tiếng Anh), Treasure Island (FL): StatPearls Publishing, PMID 31194453, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2022
- ^ Naylor, John R.; Webber, W. Richard; Booth, John D. (2005). A guide to common offshore crabs in New Zealand waters (PDF) (Bản báo cáo). New Zealand Aquatic Environment and Biodiversity Report (bằng tiếng Anh). New Zealand Ministry of Fisheries. tr. 24. ISSN 1176-9440.
- ^ Stephenson & Rees 1968, tr. 226–227.
- ^ a b c White, Adam; Doubleday, Edward (1843). “List of Annulose Animals hitherto recorded as found in New Zealand, with the Descriptions of some New Species”. Trong Dieffenbach, Ernest (biên tập). Travels in New Zealand; with Contributions to the Geography, Geology, Botany, and Natural History of that Country (bằng tiếng Anh). II. John Murray. tr. 265 – qua Internet Archive.
- ^ a b c d Osborne 1987, tr. 3.
- ^ Parker, Mckenzie & Ahyong 1998, tr. 861.
- ^ Parker, Mckenzie & Ahyong 1998, tr. 862.
- ^ Davidson 1986, tr. 285, 295.
- ^ a b c Davidson & Marsden 1987, tr. 308.
- ^ Clayton 1990, tr. 285.
- ^ a b Davidson 1986, tr. 295.
- ^ Davidson & Taylor 1995, tr. 608.
- ^ a b McLay & Osborne 1985, tr. 126.
- ^ Stephenson & Rees 1968, tr. 225–226.
- ^ Davidson 1994, tr. 4.
- ^ Osborne 1987, tr. 55–56.
- ^ a b c McLay 1988, tr. 202.
- ^ “Biology and Ecology of Ovalipes catharus” (bài tập) (bằng tiếng Anh). Bay of Plenty Polytechnic. tr. 1. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2011. Chuyển thể từ "Nghiên cứu Động vật Sinh học Lớp 7" tại Trường Otumoetai của Paul Furneaux.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
- ^ a b c Osborne 1987, tr. 64.
- ^ Davidson & Marsden 1987, tr. 313.
- ^ a b c McLay 1988, tr. 203.
- ^ a b c d e f Wear, Robert G.; Fielder, Donald R. (1985). The marine fauna of New Zealand: Larvae of Brachyura (Crustacea, Decapoda). New Zealand Oceanographic Institute Memoir 92 (bằng tiếng Anh). tr. 50–52. ISBN 0-477-06722-0. ISSN 0083-7903 – qua Internet Archive.
- ^ Armstrong 1988, tr. 531–532.
- ^ Osborne 1987, tr. 62.
- ^ Osborne 1987, tr. 28.
- ^ Osborne 1987, tr. 16, 101.
- ^ a b c Fisheries New Zealand 2023, tr. 1039.
- ^ Osborne 1987, tr. 101.
- ^ Richards 1992, tr. 48.
- ^ Davidson & Taylor 1995, tr. 607–608.
- ^ Davidson & Taylor 1995, tr. 607.
- ^ Davidson & Taylor 1995, tr. 605–606.
- ^ a b Davidson & Taylor 1995, tr. 611.
- ^ Davidson & Taylor 1995, tr. 611–612, 621.
- ^ Davidson & Taylor 1995, tr. 612.
- ^ a b c Iftikar, MacDonald & Hickey 2010, tr. 236.
- ^ Osborne 1987, tr. 91–93.
- ^ Iftikar, MacDonald & Hickey 2010, tr. 233–234.
- ^ Iftikar, MacDonald & Hickey 2010, tr. 234.
- ^ Iftikar, MacDonald & Hickey 2010, tr. 236–237.
- ^ Osborne 1987, tr. 90.
- ^ a b Haddon & Wear 1987, tr. 63.
- ^ a b Fenton và đồng nghiệp 2024, tr. 92–93.
- ^ Radford, Tay & Goeritz 2016, tr. 1.
- ^ Radford, Tay & Goeritz 2016, tr. 1–2.
- ^ Radford, Tay & Goeritz 2016, tr. 1, 6.
- ^ Flood, Goeritz & Radford 2019, tr. 8–10.
- ^ a b Flood, Goeritz & Radford 2019, tr. 11.
- ^ Stephenson & Rees 1968, tr. 224.
- ^ Stephenson & Rees 1968, tr. 214, 245.
- ^ Stephenson & Rees 1968, tr. 213, 245–246.
- ^ Stephenson & Rees 1968, tr. 227.
- ^ Glaessner 1960, tr. 34.
- ^ Parker, Mckenzie & Ahyong 1998, tr. 866.
- ^ a b Gust & Inglis 2006, tr. 349.
- ^ a b Miller, Inglis & Poulin 2006, tr. 369.
- ^ a b Osborne 1987, tr. 58, 137.
- ^ Osborne 1987, tr. 80, 84–86.
- ^ Wear & Haddon 1987, tr. 40.
- ^ Wear & Haddon 1987, tr. 41.
- ^ Davidson 1987, tr. 29.
- ^ Osborne 1987, tr. 118.
- ^ a b Wear & Haddon 1987, tr. 47–48.
- ^ Osborne 1987, tr. 81.
- ^ Wear & Haddon 1987, tr. 44.
- ^ McLay 1988, tr. 204.
- ^ Wear & Haddon 1987, tr. 45.
- ^ McLay & Osborne 1985, tr. 129.
- ^ Hanchet 1991, tr. 317.
- ^ King & Clark 1984, tr. 32.
- ^ Miller và đồng nghiệp 2012, tr. 7.
- ^ James & Stahl 2000, tr. 440, 445.
- ^ Fowler, Muirhead & Taylor 2013, tr. 678.
- ^ Fisheries New Zealand 2023, tr. 1033.
- ^ McLay & Osborne 1985, tr. 127.
- ^ Hilliam & Tuck 2023, tr. 2.
- ^ Iftikar, MacDonald & Hickey 2010, tr. 232.
- ^ a b c Miller, Inglis & Poulin 2006, tr. 373.
- ^ a b Gordon & Wear 1999, tr. 373.
- ^ Miller, Inglis & Poulin 2006, tr. 372.
- ^ Osborne 1987, tr. 124.
- ^ a b c Osborne 1987, tr. 137.
- ^ Osborne 1987, tr. 120.
- ^ a b Osborne 1987, tr. 60.
- ^ Flood, Goeritz & Radford 2019, tr. 12.
- ^ Flood, Goeritz & Radford 2019, tr. 7, 11.
- ^ a b c d Haddon 1994, tr. 333.
- ^ Haddon 1994, tr. 331, 333.
- ^ Osborne 1987, tr. 126, 127.
- ^ a b Haddon 1995, tr. 257–258.
- ^ a b Haddon 1994, tr. 329.
- ^ Haddon 1995, tr. 256, 258.
- ^ Haddon 1995, tr. 258.
- ^ Osborne 1987, tr. 125–126.
- ^ Haddon & Wear 1993, tr. 287.
- ^ a b Haddon 1994, tr. 330, 333.
- ^ a b c Haddon 1994, tr. 332.
- ^ a b Armstrong 1988, tr. 534.
- ^ Osborne 1987, tr. 128.
- ^ Osborne 1987, tr. 3–4.
- ^ a b Fisheries New Zealand 2023, tr. 1033–1034.
- ^ a b Osborne 1987, tr. 4.
- ^ McLay 1988, tr. 208.
- ^ Jester, Rhodes & Beuzenberg 2009, tr. 369.
- ^ Murray, Cameron (1984). “Promising export potential for paddle crabs [Ovalipes catharus]”. Catch (bằng tiếng Anh). 11 (9): 8. ISSN 0110-1722.
- ^ Fisheries New Zealand 2023, tr. 1033, 1035.
- ^ Pierre, Johanna P.; How, Jason R.; Dunn, Alistair (22 tháng 8 năm 2022). Whale entanglements with New Zealand pot fisheries: characterisation and opportunities for management (PDF) (Bản báo cáo) (bằng tiếng Anh). New Zealand Department of Conservation. tr. 34–35. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2024.
- ^ Weaver, Shannon Jane (2017). Investigating the socio-economic impacts of the introduced Asian paddle crab, Charybdis japonica, on New Zealand's native paddle crab fishery (Luận văn) (bằng tiếng Anh). University of Waikato. tr. 73.
Tham khảo
sửa- Glaessner, Martin F. (tháng 12 năm 1960). “The fossil decapod crustacea of New Zealand and the evolution of the order Decapoda” (PDF). Paleontological Bulletin (bằng tiếng Anh). New Zealand Geological Survey (31). ISSN 0078-8589 – qua the Natural History Museum of Los Angeles County.
- Stephenson, William; Rees, May (tháng 7 năm 1968). “A revision of the genus Ovalipes Rathbun, 1898 (Crustacea, Decapoda, Portunidae)” (PDF). Records of the Australian Museum (bằng tiếng Anh). 27 (11): 213–261. doi:10.3853/j.0067-1975.27.1968.445. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2024 – qua the Australian Museum.
- King, Ken J.; Clark, Malcolm R. (tháng 3 năm 1984). “The food of rig (Mustelus lenticulatus) and the relationship of feeding to reproduction and condition in Golden Bay”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research (bằng tiếng Anh). 18 (1): 29–42. Bibcode:1984NZJMF..18...29K. doi:10.1080/00288330.1984.9516026. ISSN 0028-8330.
- McLay, Colin L.; Osborne, Tracey A. (tháng 6 năm 1985). “Burrowing behaviour of the paddle crab Ovalipes catharus (White, 1843) (Brachyura: Portunidae)”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research (bằng tiếng Anh). 19 (2): 125–130. Bibcode:1985NZJMF..19..125M. doi:10.1080/00288330.1985.9516078. ISSN 0028-8330.
- Davidson, Robert J. (tháng 11 năm 1986). “Mussel selection by the paddle crab Ovalipes catharus (White): Evidence of flexible foraging behaviour”. Journal of Experimental Marine Biology and Ecology (bằng tiếng Anh). 102 (2–3): 281–299. Bibcode:1986JEMBE.102..281D. doi:10.1016/0022-0981(86)90182-6.
- Wear, Robert G.; Haddon, Malcolm (27 tháng 1 năm 1987). “Natural diet of the crab Ovalipes catharus (Crustacea, Portunidae) around central and northern New Zealand”. Marine Ecology Progress Series (bằng tiếng Anh). 35 (1/2): 39–49. Bibcode:1987MEPS...35...39W. doi:10.3354/meps035039. JSTOR 24825007.
- Haddon, Malcolm; Wear, Robert G. (tháng 3 năm 1987). “Biology of feeding in the New Zealand paddle crab Ovalipes catharus (Crustacea, Portunidae)”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research (bằng tiếng Anh). 21 (1): 55–64. Bibcode:1987NZJMF..21...55H. doi:10.1080/00288330.1987.9516200. ISSN 0028-8330.
- Davidson, Robert J.; Marsden, Islay D. (tháng 4 năm 1987). “Size relationships and relative growth of the New Zealand swimming crab Ovalipes catharus (White, 1843)”. Journal of Crustacean Biology (bằng tiếng Anh). 7 (2): 308–317. Bibcode:1987JCBio...7..308.. doi:10.1163/193724087X00261. JSTOR 1548611.
- Davidson, Robert J. (1987). Natural food and predatory activity of the paddle crab, Ovalipes catharus: A flexible forager (Luận văn) (bằng tiếng Anh). University of Canterbury. tr. 2–15. doi:10.26021/6041.
- Osborne, Tracey A. (1987). Life history and population biology of the paddle crab, Ovalipes catharus (Luận văn) (bằng tiếng Anh). University of Canterbury. doi:10.26021/6494.
- Armstrong, James H. (tháng 12 năm 1988). “Reproduction in the paddle crab Ovalipes catharus (Decapoda: Portunidae) from Blueskin Bay, Otago, New Zealand”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research (bằng tiếng Anh). 22 (4): 529–536. Bibcode:1988NZJMF..22..529A. doi:10.1080/00288330.1988.9516323. ISSN 0028-8330.
- McLay, Colin L. (1988). Brachyura and crab-like Anomura of New Zealand (Bản báo cáo). Leigh Laboratory Bulletin (bằng tiếng Anh). tr. 200–209 – qua ResearchGate.
- Clayton, David A. (tháng 5 năm 1990). “Crustacean allometric growth: A case for caution”. Crustaceana (bằng tiếng Anh). 58 (3): 270–290. doi:10.1163/156854090X00183. JSTOR 20104553.
With such closely similar growth equations it is difficult to believe that the negative allometry of the [male Ovalipes catharus] and isometry of the females represent a real difference between the sexes and not just a statistical one.
- Hanchet, Stuart (tháng 9 năm 1991). “Diet of spiny dogfish, Squalus acanthias Linnaeus, on the east coast, South Island, New Zealand”. Journal of Fish Biology (bằng tiếng Anh). 39 (3): 313–323. Bibcode:1991JFBio..39..313H. doi:10.1111/j.1095-8649.1991.tb04365.x.
- Richards, Robert N. (1992). The structure and function of the gills of the New Zealand paddle crab: Ovalipes catharus (Luận văn) (bằng tiếng Anh). University of Canterbury. doi:10.26021/13400.
- Haddon, Malcolm; Wear, Robert G. (tháng 9 năm 1993). “Seasonal incidence of egg-bearing in the New Zealand paddle crab Ovalipes catharus (Crustacea: Brachyura), and its production of multiple egg batches”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research (bằng tiếng Anh). 27 (3): 287–293. Bibcode:1993NZJMF..27..287H. doi:10.1080/00288330.1993.9516569. ISSN 0028-8330.
- Haddon, Malcolm (tháng 12 năm 1994). “Size – fecundity relationships, mating behaviour, and larval release in the New Zealand paddle crab, Ovalipes catharus (White 1843) (Brachyura: Portunidae)”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research (bằng tiếng Anh). 28 (4): 329–334. Bibcode:1994NZJMF..28..329H. doi:10.1080/00288330.1994.9516622. ISSN 0028-8330.
- Davidson, Glen W. (1994). The respiratory physiology of the New Zealand paddle crab, Ovalipes catharus (Luận văn) (bằng tiếng Anh). University of Canterbury. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2024.
- Davidson, Glen W.; Taylor, Harry H. (tháng 10 năm 1995). “Ventilatory and vascular routes in a sand-burying swimming crab, Ovalipes catharus (White, 1843) (Brachyura: Portunidae)”. Journal of Crustacean Biology (bằng tiếng Anh). 15 (4): 605–624. Bibcode:1995JCBio..15..605.. doi:10.1163/193724095X00019. JSTOR 1548810.
- Haddon, Malcolm (tháng 10 năm 1995). “Avoidance of post-coital cannibalism in the brachyurid paddle crab Ovalipes catharus”. Oecologia (bằng tiếng Anh). 104 (2): 256–258. Bibcode:1995Oecol.104..256H. doi:10.1007/BF00328590. JSTOR 4221102. PMID 28307362.
- Parker, Andrew R.; Mckenzie, David R.; Ahyong, Shane T. (22 tháng 5 năm 1998). “A unique form of light reflector and the evolution of signalling in Ovalipes (Crustacea: Decapoda: Portunidae)”. Proceedings of the Royal Society B: Biological Sciences (bằng tiếng Anh). 265 (1399): 861–867. doi:10.1098/rspb.1998.0371. PMC 1689053.
- Gordon, Dennis P.; Wear, Robert G. (1999). “A new ctenostome brozoan ectosymbiotic with terminal-moult paddle crabs (Portunidae) in New Zealand”. New Zealand Journal of Zoology (bằng tiếng Anh). 26 (4): 373–380. doi:10.1080/03014223.1999.9518200.
- James, Gavin D.; Stahl, Jean-Claude (2000). “Diet of southern Buller's albatross (Diomedea bulleri bulleri) and the importance of fishery discards during chick rearing”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research (bằng tiếng Anh). 43 (3): 435–454. Bibcode:2000NZJMF..34..435J. doi:10.1080/00288330.2000.9516946. ISSN 0028-8330.
- Gust, Nick; Inglis, Graeme J. (tháng 3 năm 2006). “Adaptive multi-scale sampling to determine an invasive crab's habitat usage and range in New Zealand”. Biological Invasions (bằng tiếng Anh). 8 (2): 339–353. Bibcode:2006BiInv...8..339G. doi:10.1007/s10530-004-8243-y – qua ResearchGate.
- Miller, Aroha; Inglis, Graeme J.; Poulin, Robert (tháng 6 năm 2006). “Comparison of the ectosymbionts and parasites of an introduced crab, Charybdis japonica, with sympatric and allopatric populations of a native New Zealand crab, Ovalipes catharus (Brachyura: Portunidae)”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research (bằng tiếng Anh). 40 (2): 369–378. Bibcode:2006NZJMF..40..369M. doi:10.1080/00288330.2006.9517428. ISSN 0028-8330.
- Jester, Rozalind J.; Rhodes, Lesley L.; Beuzenberg, Veronica (tháng 1 năm 2009). “Uptake of paralytic shellfish poisoning and spirolide toxins by paddle crabs (Ovalipes catharus) via a bivalve vector”. Harmful Algae (bằng tiếng Anh). 8 (2): 369–376. Bibcode:2009HAlga...8..369J. doi:10.1016/j.hal.2008.08.002. ISSN 1568-9883.
- Iftikar, Fathima I.; MacDonald, Julia; Hickey, Anthony J.R. (tháng 11 năm 2010). “Thermal limits of portunid crab heart mitochondria: Could more thermo-stable mitochondria advantage invasive species?”. Journal of Experimental Marine Biology and Ecology (bằng tiếng Anh). 395 (1–2): 232–239. Bibcode:2010JEMBE.395..232I. doi:10.1016/j.jembe.2010.09.005.
- Miller, Elanor J.; Lalas, Chris; Dawson, Stephen M.; Ratz, Hultrun; Slooten, Elisabeth (tháng 8 năm 2012). “Hector's dolphin diet: The species, sizes and relative importance of prey eaten by Cephalorhynchus hectori, investigated using stomach content analysis”. Marine Mammal Science (bằng tiếng Anh). 29 (4): 606–628. Bibcode:2013MMamS..29..606M. doi:10.1111/j.1748-7692.2012.00594.x – qua ResearchGate.
- Fowler, Amy E.; Muirhead, Jim R.; Taylor, Richard B. (tháng 9 năm 2013). “Early Stages of A New Zealand Invasion By Charybdis Japonica (A. Milne-Edwards, 1861) (Brachyura: Portunidae) from Asia: Behavioral Interactions with A Native Crab Species”. Journal of Crustacean Biology (bằng tiếng Anh). 33 (5): 672–680. Bibcode:2013JCBio..33..672T. doi:10.1163/1937240X-00002177. JSTOR 43835684.
- Radford, Craig A.; Tay, Kevin; Goeritz, Marie L. (tháng 10 năm 2016). “Hearing in the paddle crab, Ovalipes catharus”. Proceedings of Meetings on Acoustics (bằng tiếng Anh). 27 (1): 010013. doi:10.1121/2.0000259. eISSN 1939-800X.
- Flood, Ashley S.; Goeritz, Marie L.; Radford, Craig A. (tháng 11 năm 2019). “Sound production and associated behaviours in the New Zealand paddle crab Ovalipes catharus”. Marine Biology (bằng tiếng Anh). 166 (12): 162. Bibcode:2019MarBi.166..162F. doi:10.1007/s00227-019-3598-x.
- Fisheries Assessment Plenary May 2023 Volume 2 – Paddle Crabs (PAD) (Bản báo cáo) (bằng tiếng Anh). Fisheries New Zealand. 21 tháng 6 năm 2023.
- Hilliam, Kyle; Tuck, Ian D. (tháng 10 năm 2023). “Range expansion of the invasive portunid crab Charybdis japonica in New Zealand”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research (bằng tiếng Anh). 57 (4): 518–534. Bibcode:2023NZJMF..57..518H. doi:10.1080/00288330.2022.2071301. ISSN 0028-8330 – qua ResearchGate.
- Fenton, Ketherine F.; và đồng nghiệp (tháng 1 năm 2024). “High densities of large tuaki, the New Zealand cockle Austrovenus stutchburyi, provide a post-settlement predation refuge for conspecific juveniles”. Marine Ecology Progress Series (bằng tiếng Anh). 726: 85–98. Bibcode:2024MEPS..726...85F. doi:10.3354/meps14466.
Liên kết ngoài
sửa- Tư liệu liên quan tới Ovalipes catharus tại Wikimedia Commons
- Dữ liệu liên quan tới Ovalipes catharus tại Wikispecies