Igor Vasilyevich Kurchatov
Igor Vasilyevich Kurchatov (tiếng Nga: И́горь Васи́льевич Курча́тов; 12 tháng 1 năm 1903 – 7 tháng 2 năm 1960) là một nhà vật lý học người Nga. Kurchatov sinh ra tại Simsky Zavod, Ufa Governorate (ngày nay là thị xã Sim, Chelyabinsk Oblast).
Igor Kurchatov | |
---|---|
Игорь Курчатов | |
Sinh | Igor Vasilyevich Kurchatov 12 tháng 1, 1903[1] (O.S. 31 tháng 12, 1902) Simsky Zavod, Ufa, Đế quốc Nga (hiện nay là Sim, Chelyabinsk Oblast, Nga)[1] |
Mất | 7 tháng 2 năm 1960[1] Moscow, Liên Xô[1] | (57 tuổi)
Nơi an nghỉ | Kremlin Wall Necropolis |
Tư cách công dân | Liên Xô |
Trường lớp | Học viện công nghệ Leningrad |
Nổi tiếng vì | Dự án vũ khí hạt nhân của Liên Xô Dự án tên lửa đạn đạo của Liên Xô |
Giải thưởng | Giải thưởng Lenin Giải thưởng Stalin Anh hùng lao động Xã hội Chủ nghĩa Liên Xô |
Website | I.V. Kurchatov by PBS |
Sự nghiệp khoa học | |
Ngành | Nhà vật lý học |
Nơi công tác | Arzamas-16 Ioffel Physico-Technical Institute Học viện công nghệ Azerbaijan |
Giống như nhiều người cùng thời ở Liên Xô, Kurchatov, ban đầu được đào tạo thành một kỹ sư hải quân, đã tự học về vật lý hạt nhân và được chính quyền Liên Xô chọn vào dự án để đẩy nhanh khả năng chế tạo "siêu bom". Với sự hỗ trợ của hoạt động tình báo hiệu quả của các cơ quan Liên Xô về Dự án Manhattan của Mỹ, Kurchatov đã giám sát quá trình phát triển và thử nghiệm nhanh chóng vũ khí hạt nhân đầu tiên của Liên Xô tại Semipalatinsk thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan vào năm 1949. Ông được vinh danh là "Cha đẻ của bom hạt nhân Nga".[2]
Kurchatov đã nhận được nhiều danh hiệu cao quý nhất của Liên Xô cũ, và có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển ngành công nghiệp hạt nhân hiện đại ở Nga. Sức khỏe của ông suy giảm nhanh chóng chủ yếu là do một tai nạn bức xạ năm 1949 ở Chelyabinsk-40.:107–108[3] Ông mất ở Mát-xcơ-va vào năm 1960, thọ 57 tuổi.[1]
Tiểu sử
sửaKurchatov sinh ra tại một ngôi làng nhỏ ở Simsky Zavod ở vùng Ufa, Đế quốc Nga (nay là thị trấn Sim, Chelyabinsk Oblast, Liên bang Nga), vào ngày 12 tháng 1 năm 1903.:2039[4] Cha của ông, Vasily Alekseyevich Kurchatov, là một thanh tra viên và cựu trợ lý kiểm lâm ở dãy núi Ural. Mẹ của ông, Mariya Vasilyevna Ostroumova, là con gái của một linh mục giáo xứ ở Sim, là một giáo viên ở trường học[5][1] Gia đình ông chuyển đến Simferopol ở Crimea vào năm 1912.[6] Gia đình Kurchatov có sắc tộc là Nga.[7]
Sau khi chị gái của ông, Antonina, qua đời ở Crimea, Igor lớn lên cùng em trai của mình, Boris, nơi cả hai đều theo học tại trường trung học Simferopol số 1 và là người chơi đàn mandolin trong dàn nhạc của trường.[6] Trong Thế chiến thứ nhất, Igor và Boris phải làm việc để nuôi gia đình, trở thành một thợ hàn lành nghề và phát triển sở thích về động cơ hơi nước, với mong muốn trở thành kỹ sư.[6]
Kurchatov theo học tại Đại học Nhà nước Crimea, nơi ông học vật lý và đã xây dựng được danh tiếng về khả năng của mình trong việc thực hiện các thí nghiệm vật lý, nhờ đó ông được cấp bằng cử nhân.:13[8][6][9] Kurchatov sớm chuyển đến Baku ở Azerbaijan sau khi được nhận một công việc trợ lý nghiên cứu vật lý tại Học viện Bách khoa Azerbaijan.:449[10] Tại đó, ông đã trình bày các thí nghiệm của mình về sự dẫn điện, điều này đã gây ấn tượng với Tiến sĩ Abram Ioffe là khách mời, và ông ta đã mời ông đến Viện Vật lý - Kỹ thuật ở Saint Petersburg, Nga.[6][11]
Kurchatov kết hôn với Marina Sinelnikova vào năm 1927 và họ không có con.[12]
Trong khi làm việc dưới sự chỉ đạo của Ioffe về điện sắt và chất bán dẫn, Kurchatov đã vào Học viện Bách khoa Leningrad để học kỹ thuật, và ông lấy bằng kỹ sư hải quân vào những năm 1930.[1][11] Từ năm 1931 đến năm 1934, ông làm việc tại Viện phóng xạ đứng đầu bởi Vitaly Khlopin . Năm 1937, Kurchatov là thành viên của nhóm thiết kế và chế tạo máy gia tốc hạt cyclotron đầu tiên ở Nga, được lắp đặt tại Viện phóng xạ.[13] Việc lắp đặt hoàn tất vào năm 1937, và việc nghiên cứu bắt đầu diễn ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1939.[14][15] Trong thời gian này, Kurchatov đã cân nhắc đến việc du học về vật lý tại Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley ở Hoa Kỳ, nhưng kế hoạch đã bị hủy bỏ vì lý do chính trị.[13] Cho đến năm 1933, Kurchatov không đi sâu vào vật lý hạt nhân và công trình của ông chủ yếu tập trung vào điện từ, nhưng ông đã thực hiện một công trình quan trọng về đồng vị hạt nhân và phóng xạ vào năm 1935.:449[10]
Năm 1940, Kurchatov chuyển đến Kazan và nuôi dưỡng nỗi ám ảnh về vật lý hạt nhân sau khi Georgy Flerov đã viết một lá thư về các khám phá mới.:47–57[6] Trong những năm 1942–43, Kurchatov tham gia một dự án với Hải quân Liên Xô và chuyển đến thành phố Murmansk, nơi ông làm việc với nhà vật lý đồng nghiệp Anatoly Alexandrov.[3] Đến tháng 11 năm 1941, họ đã nghĩ ra một phương pháp khử từ để bảo vệ tàu thuyền khỏi thủy lôi của Đức, được sử dụng tích cực cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và sau đó.[16][17][18]
Khi thực hiện công việc với Hải quân Liên Xô, Kurchatov vẫn nuôi dưỡng ý tưởng về tiềm năng của phản ứng phân hạch hạt nhân khi ông viết vào năm 1944: "Nguyên tử Uranium phải được tách thành hai phần tại thời điểm phát nổ. Khi phá vỡ các hạt nhân trong một kilôgam urani, năng lượng giải phóng sẽ tương đương vụ nổ của 20.000 tấn thuốc nổ TNT.":152[19]:30–32[20]
Sự nghiệp
sửaCông trình khoa học đầu tiên của ông là thời gian ở đài khí tượng thủy văn Paplov. Sau nhờ những khám phá về hiệu ứng áp điện khiến ông trở thành nhà vật lý nổi tiếng.
Năm 1932, ông bắt đầu nghiên cứu về vật lý nguyên tử. Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ khiến ông phải chuyển sang làm công việc kĩ sư thiết kế tàu chiến. Sau đó, vật lý nguyên tử được quan tâm mạnh hơn, ông được giao nhiệm vụ là tiếp tục sự nghiệp về năng lượng nguyên tử. Ông được cử làm Tổng công trình sư của dự án phát triển năng lượng nguyên tử nhằm nghiên cứu về các vũ khí nguyên tử.
Ngày 29 tháng 8 năm 1949, sau những năm tháng cặm cụi trong phòng thí nghiệm, quả bom nguyên tử đầu tiên do Liên Xô sản xuất đã được thử nghiệm thành công tại Semipalatinsky (Kazahstan), chấm dứt sự độc quyền về vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ.
Năm 1954, nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới ra đời ở Obninsk với sự đóng góp không nhỏ của tổng công trình sư, Kurchatov.
Những đóng góp to lớn của ông cho sự phát triển của vật lý nguyên tử Liên Xô và thế giới nói chung nhưng ông không hề đòi hỏi gì riêng cho mình. Sức khỏe ông bị suy kiệt do làm việc trong môi trường độc hại. Ông mất ngày 7 tháng 2 năm 1960 một cách lặng lẽ khi đang ngồi trên ghế trong viện an dưỡng ở thủ đô Moskva.
Vinh danh
sửaTượng của ông đã được dựng ở nhiều nơi như: Ozyorsk, Chelyabinsk, Semipalatinsky.. để tưởng nhớ đến người đã có công công góp phần chế tạo ra quả bom nguyên tử đầu tiên ở Liên Xô.
Tên ông còn được đạt tên cho nhà máy điện hạt nhân Beloyarsk (Nhà máy điện hạt nhân Beloyarsk mang tên I.V.Kurchatov, Tiếng Nga:Белоярская атомная электростанция им. И. В. Курчатова (БАЭС).
Tham khảo
sửa- ^ a b c d e f g Igor Vasilyevich Kurchatov Lưu trữ 19 tháng 10 năm 2020 tại Wayback Machine. Encyclopaedia Britannica
- ^ Jenks, Andrew (2014). The Cosmonaut Who Couldn’t Stop Smiling: The Life and Legend of Yuri Gagarin (bằng tiếng Anh). DeKalb, Ill: NIU Press. tr. 103. ISBN 978-0-87580-447-7.
- ^ a b Marcovici, Ozias (2019). Atom between Science and Politics (bằng tiếng Anh). Lulu.com. tr. 338. ISBN 978-0-359-73723-9. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Chín năm 2023. Truy cập 4 Tháng mười một năm 2022.
- ^ Magill, Frank N. (5 tháng 3 năm 2014). The 20th Century Go-N: Dictionary of World Biography, Volume 8 (bằng tiếng Anh). Routledge. ISBN 978-1-317-74060-5. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Chín năm 2023. Truy cập 5 Tháng mười một năm 2022.
- ^ Dictionary of World Biography, volume VIII- The 20th Century, Go-N, ed. Frank N. Magill, Routledge, p. 2039
- ^ a b c d e f Golovin, Igorʹ Nikolaevich. Academician, Igor Kurchatov. Russia, Mir Publishers, 1969.
- ^ Курчатов Игорь Васильевич Lưu trữ 14 tháng 8 năm 2021 tại Wayback Machine. warheroes.ru
- ^ Inc, Educational Foundation for Nuclear Science (tháng 12 năm 1967). Bulletin of the Atomic Scientists: The Father of Soviet Atomic Bomb (bằng tiếng Anh). Educational Foundation for Nuclear Science, Inc. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Chín năm 2023. Truy cập 5 Tháng mười một năm 2022.
- ^ The doctorate in Russia is not a degree but an honorary degree given after several years of independent work in science
- ^ a b Dowling, Timothy C. (2 tháng 12 năm 2014). Russia at War: From the Mongol Conquest to Afghanistan, Chechnya, and Beyond [2 volumes] (bằng tiếng Anh). ABC-CLIO. ISBN 978-1-59884-948-6. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Chín năm 2023. Truy cập 5 Tháng mười một năm 2022.
- ^ a b Gaponov, Yu. V. (2003). “Igor' Vasil'Evich Kurchatov: The Scientist And Doer (January 12, 1903 – February 7, 1960)” (PDF). Physics of Atomic Nuclei. 66 (1): 3–7. Bibcode:2003PAN....66....1G. doi:10.1134/1.1540651. S2CID 119603044. Lưu trữ (PDF) bản gốc 21 Tháng Một năm 2022. Truy cập 21 Tháng hai năm 2024.
- ^ Josephson, Paul R. (10 tháng 6 năm 2005). Red Atom: Russia's Nuclear Power Program from Stalin to Today (ấn bản thứ 1). University of Pittsburgh Press. tr. 13. ISBN 0822958813. Lưu trữ bản gốc 21 Tháng hai năm 2024. Truy cập 12 tháng Năm năm 2019.
- ^ a b Braithwaite, Rodric (9 tháng 2 năm 2018). Armageddon and Paranoia: The Nuclear Confrontation since 1945 (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. ISBN 978-0-19-087031-7. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Chín năm 2023. Truy cập 21 Tháng hai năm 2024.
- ^ Radium Institute named Vitaly Khlopin Lưu trữ 26 tháng 4 năm 2011 tại Wayback Machine
- ^ Radium Institute named Vitaly Khlopin. Chronology Lưu trữ 26 tháng 4 năm 2011 tại Wayback Machine
- ^ Aleksandrov, A. P. (1983). “Годы с Курчатовым”. Nauka i Zhizn. 2. Lưu trữ bản gốc 5 Tháng tư năm 2023. Truy cập 21 Tháng hai năm 2024.
- ^ Koptev, Yu. I. (2008) "Виза безопасности". St. Petersburg. Изд-во Политехнического Университета. (bằng tiếng Nga)
- ^ Regel, V. R. (1975). “Размагничивание кораблей в годы Великой Отечественной войны”. Priroda. 4. Lưu trữ bản gốc 19 Tháng Ba năm 2022. Truy cập 21 Tháng hai năm 2024.
- ^ Pondrom, Lee G. (25 tháng 7 năm 2018). Soviet Atomic Project, The: How The Soviet Union Obtained The Atomic Bomb (bằng tiếng Anh). World Scientific. ISBN 978-981-323-557-1. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Chín năm 2023. Truy cập 21 Tháng hai năm 2024.
- ^ Gubarev, Vladimir, Atomnaya Bomba